Thứ Bảy, 17 tháng 8, 2013

Thứ Tư ngày 14.08.2013



Thứ Tư ngày 14.08.2013

Lời Chúa: Mt 18, 15-20
Khi ấy, Đức Giêsu nói với các môn đệ rằng: “Nếu người anh em của anh trót phạm tội, thì anh hãy đi sửa lỗi nó, một mình anh với nó mà thôi. Nếu nó chịu nghe anh, thì anh đã được món lợi là người anh em mình. Còn nếu nó không chịu nghe, thì hãy đem theo một hay hai người nữa, để mọi công việc được giải quyết, căn cứ vào lời hai hoặc ba chứng nhân. Nếu nó không nghe họ, thì hãy đi thưa Hội Thánh. Nếu Hội Thánh mà nó cũng chẳng nghe, thì hãy kể nó như một người ngoại hay một người thu thuế. Thầy bảo thật anh em: dưới đất, anh em cầm buộc những điều gì, trên trời cũng cầm buộc như vậy; dưới đất, anh em tháo cởi những điều gì, trên trời cũng tháo cởi như vậy. Thầy còn bảo thật anh em: nếu ở dưới đất, hai người trong anh em hợp lời cầu xin bất cứ điều gì, thì Cha Thầy, Ðấng ngự trên trời, sẽ ban cho. Vì ở đâu có hai ba người họp lại nhân danh Thầy, thì có Thầy ở đấy, giữa họ.”.

Câu chuyện 1: Tiểu sử Thánh Tử Đạo Maximilianô Maria Kolbê Linh mục (1894 - 1941)
Râymunđô Kolbê sinh năm 1894 tại Ba Lan. Ngài gia nhập dòng Phanxicô năm 1907 và nhận tên là Maximilianô. Maximilianô rất yêu mến ơn gọi của mình, đặc biệt thánh nhân rất yêu mến Mẹ Maria. Thánh nhân đã thêm thánh danh “Maria” vào tên của ngài khi tuyên khấn trọng thể vào năm 1914. Cha Maximilianô Kolbê Maria tin rằng thế giới của thế kỷ thứ 20 này cần đến sự bảo trợ và hướng dẫn của Đức Mẹ. Cha đã dùng các phương tiện báo chí để làm cho thánh danh Mẹ được mọi người nhận biết. Maximilianô Maria và các anh em dòng Phanxicô hằng tháng đã xuất bản 2 bản tin về Đức Mẹ và gửi tới các độc giả khắp nơi trên thế giới.
Đức Mẹ đã chúc lành cho công việc của Cha Maximilianô Maria. Cha đã xây một Trung tâm Thánh Mẫu lớn ở Ba Lan. Trung tâm này được gọi là “Đô Thành Mẹ Vô Nhiễm”. Vào năm 1938, đã có tới 800 tu sĩ Phanxicô sống và truyền bá lòng yêu mến Đức Mẹ tại nơi đây. Cha Kolbê cũng thiết lập một Đô Thành Mẹ Vô Nhiễm nữa tại Ấn Độ. Vào năm 1939, Đảng Quốc xã xâm chiếm Đô Thành Mẹ Thiên Chúa ở Ba Lan. Họ đã bắt mọi người phải ngưng công việc tốt đẹp này. Đến năm 1941, Đảng Quốc xã bắt giam Cha Kolbê. Họ giam ngài trong một trại lao động khốn khổ tại Auschwitz.
Cha Maximilianô Kolbê bị giam tại Auschwitz được 3 tháng thì có một tù nhân vượt ngục. Đảng Quốc xã liền bắt các tù nhân còn lại phải trả giá cho vụ đào tẩu đó. Họ đã chọn ngẫu nhiên 10 tù nhân để bắt xuống hầm giam và bỏ đói cho chết. Hết mọi tù nhân đều đứng nghiêm lặng trong khi 10 người bị lôi ra khỏi hàng. Một tù nhân đã có gia đình, là người bị chọn, bấy giờ lên tiếng xin tha mạng vì đàn con của ông. Cha Maximilianô Kolbê, không phải là người bị chọn, đã nghe biết và cảm thấy xúc động mạnh đến nỗi ngài quyết định giúp người bạn tù kia. Maximilianô Kolbê tiến lên phía trước và hỏi anh chỉ huy xem liệu ngài có thể thay thế chỗ của anh bạn tù đáng thương này không. Và người chỉ huy chấp nhận đề nghị của Cha Maximilianô Kolbê.
Thế rồi, Cha Maximilianô Kolbê và các tù nhân khác bị giải xuống hầm giam. Họ chỉ sống được vài ngày vì thiếu thực phẩm và nước uống. Cha Maximilianô Kolbê đã giúp đỡ và an ủi từng người một. Và lần lượt 9 người đã chết, Cha Maximilianô Kolbê là người cuối cùng. Người ta đã tiêm cho Maximilianô Kolbê một mũi thuốc phenon (acid carbolic) và đã kết thúc cuộc đời của ngài hôm 14-8-1941. Đức Thánh Cha Gioan Phaolô II đã tôn phong Cha Maximilianô Kolbê Maria lên bậc hiển thánh và tuyên nhận ngài là thánh tử đạo năm 1982.
Thánh Maximilianô Kolbê Maria là vị thánh anh hùng đã hiến mạng sống mình cho người khác được sống. Thánh nhân là người đặc biệt như vậy vì ngài là bạn rất thân thiết của Đức Maria. Chúng ta cũng sẽ là những bạn thân của Đức Maria nếu chúng ta hết lòng tôn kính và cầu khẩn với Mẹ.

Câu chuyện 2: Tiểu sử Thánh Tử Đạo Giuse Nguyễn Duy Khang (1832 - 1861) - Thầy giảng Dòng Đaminh
Giuse Nguyễn Duy Khang chào đời năm 1832, tại Cao Mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cha mẹ cậu là những giáo hữu đạo đức, hướng dẫn các con vào đời sống đạo ngày tư nhỏ. Nhưng cha cậu đã sớm qua đời, cậu được mẹ săm sóc tận tình. Bà lo niệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ý muốn hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa và gởi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha Matthêu Năng dòng Đaminh.
Sau mười năm sống với vị linh mục lão thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Latinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục tương lai. Giai đoạn này thày Giuse Khang xin gia nhập dòng ba Đaminh, và được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng tràng điều hành mọi ông việc trong nhà như lao động, nấu ăn, liên lạc cới các bề trên. Mặc dù bận rộn, thay Khang vẫn nêu gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đã tiếp xúc với thày đều nói thày đạo đức, có tính cương trực, nhưng lại luôn luôn hòa nhã với hết thảy mọi người.
Khi đó, Đức cha Hemosilla Liêm cũng ở Kẻ Mốt đã tín nhiệm thày cách đặc biệt và chọn thày làm người phụ tá riêng. Thày Khang vui vẻ phục vụ Đức cha cách tận tình : từ việc dọn bàn thờ, sắp xếp các hồ sơ, sao chép các hồ sơ luân lưu, cho đến công tác cơm nước, liên lạc. Có lần thày còn đào hang trú ẩn cho hai cha nữa.
Giáo Hội Việt Nam lúc ấy đang trong tình trạng bị bách hại khốc liệt, dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia Tô trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ phân sáp ngày 05.8.1861. theo chiếu chỉ đó, mọi tín hữu Gia Tô già trẻ lớn nhỏ, nam nữ đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. các tín hữu bị khắc chữ trên má, gia đình bị phân chia, vợ một nơi, chồng một nẻo, con cái mỗi đưa một miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.
Trong bối cảnh đó, ngày 18.9, Đức cha Hemosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định giải tán chủng viện Kẻ Mốt. Linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh: "Anh em khỏi chào Đức cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt". Riêng thày Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức cha cho tới cùng. Khi giã từ các bạn, thày nói nửa đùa nửa thật: "Tôi nhất định theo Đức cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi. Đức cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì". Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thày Khang vẫn vui tươi nhờ lòng tin tưởng phó thác và tâm tình hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.
Ba tuần lễ đầu, thày Khang cùng với Đức cha sống trong hang trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan quân đã phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền đánh cá. Thày Khang chèo thuyền qua thị xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thành "Tòa Giám mục lưu động" của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentinô Vinh và linh mục Almatô Bình đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn Chúa vì cơ may đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội. Đến sáng, các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngả.
Một hôm gia đình Trương Bính xảy ra cuộc cãi lộn. Người con trai tức giận với cha mẹ nên tố cáo ông bà chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội Bảng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha. Thấy họ tới nơi, thày Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến đứng chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo : phải bước qua xác tôi, rồi muốn bắt ai thì bắt.
Nhưng vị Giám mục khả kính và nhân ái đã đến nắm lấy vai thày, ngài nói: "Đừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa". Thày Khang ngỡ ngàng quay lại nhìn người cha già và chợt hiểu ra ý ngài, thày chỉ nói được một lời : "Thưa vâng", rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.
Một tháng rưỡi trong tù, thày Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thày liền tổ chức cho cả phòng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, và mỗi tối làm việc thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thày bị đưa ra tòa tra tấn ba lần, bị đánh đòn khắp hai bên mông. Lần nào thày cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đều nấu nước rửa và xoa bóp cho thày dịu bớt cơn đau.
Đặc biệt ở trong tù, thày Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. một lá thư thày viết : "Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi Đức cha đã ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. Xin anh em cầu nguyện cho tôi".
Trong lá thư khác thày viết : "Anh em cho tôi một cái quần, vì quần tôi cũ, phải đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gửi cho tôi một cái khăn để khi tôi chết, có cái mà liệm xác đem chôn".
Ngày 06.12.1861, thày Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gửi ra, thày vui vẻ theo lịnh ra pháp trường Năm mẫu, nơi đã thấm máu người cha kính yêu của thày ngày 01.11 trước đó. sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi thể ngay ở ngoài ruộng.
Năm 1867, theo lệnh của Đức cha Hy, thày cai Hinh, anh ruột của vị tử đạo đã dời hài cốt em của mình về nhà nguyện Kẻ Mốt.
Ngày 20.5.1906, Đức Thánh Cha Piô X suy tôn thày Giuse Nguyễn Duy Khang lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 6.12 hàng năm.

Bài học:
        Đức Giêsu nêu gương cho mỗi người trong cuộc sống nơi trần thế. Ngài hướng dẫn xây đắp tình huynh đệ không chỉ bằng lời nói suông, mà còn phải có hành động cụ thể mang đầy tình yêu thương.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét